Tiêu điểm

Dự án Luật Đầu tư PPP: Cần phải mang toàn bộ dự án PPP ra ánh sáng

(VNF) – Công khai thông tin, lấy ý kiến về dự án/hợp đồng PPP trước khi kí kết là nội dung quan trọng mà Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhấn mạnh trong văn bản góp ý đối với dự án Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (Luật Đầu tư PPP).

Dự án Luật Đầu tư PPP: Cần phải mang toàn bộ dự án PPP ra ánh sáng

Cần phải mang toàn bộ dự án PPP ra ánh sáng

Cần công khai toàn bộ dự án, hợp đồng PPP

Theo VCCI, việc công khai, minh bạch và lấy ý kiến cộng đồng đối với các dự án PPP rất quan trọng. Việc này cần phải được quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm túc hơn cả đối với các dự án đầu tư công.

Nguyên nhân là với các dự án đầu tư công, nếu người dân có những phản ứng thì nhà nước có thể chủ động điều chỉnh dự án mà không cần điều chỉnh hợp đồng. Tuy nhiên đối với các dự án đầu tư PPP, việc điều chỉnh dự án thường sẽ kéo theo việc phải đàm phán lại giữa nhà nước và nhà đầu tư.

Do đó, nếu dự án/hợp đồng PPP được tham vấn ý kiến kĩ lưỡng ngay từ đầu thì sẽ tránh được các rủi ro này.

VCCI đề nghị trong hợp đồng PPP, quy định về công khai thông tin, lấy ý kiến dự án cần có một số nội dung.

Một là bảo đảm việc đăng công khai thông tin về dự án PPP ít nhất 60 ngày trước khi ký kết. Nội dung công khai này bao gồm: tóm tắt thông tin về dự án; báo cáo nghiên cứu tiền khả thi; báo cáo nghiên cứu khả thi; bản thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi; bản thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi; dự thảo hợp đồng. Các nội dung thuộc bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh, tài sản trí tuệ chưa công bố thì được phép xóa.

Hai là đối với dự án có quy mô lớn hoặc ảnh hưởng đến bên thứ ba, phải lấy ý kiến thông qua văn bản, hội thảo, họp báo. Đối tượng được lấy ý kiến gồm các cá nhân, tổ chức bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của dự án và các tổ chức đại diện của họ. Ví dụ, các dự án có thu phí sử dụng đường bộ thì phải hỏi ý kiến các doanh nghiệp vận tải, hiệp hội vận tải và người dân quanh khu vực dự án.

Ba là, các ý kiến đóng góp cho dự án phải được tổng hợp, giải trình và gửi kèm cho cơ quan hoặc người có thẩm quyền ký hợp đồng.

Sau khi ký hợp đồng, các thông tin về hợp đồng, việc thực hiện dự án và các kết quả kiểm tra, giám sát của dự án cũng cần được công bố.

Cụ thể, VCCI cho rằng cần công bố toàn bộ các hợp đồng đầu tư PPP bao gồm cả phụ lục (trừ các nội dung về sáng chế, kiểu dáng công nghiệp chưa công bố); công bố các báo cáo định kỳ về tình hình hoạt động của dự án đầu tư, gồm cả báo cáo của chủ dự án nộp cho cơ quan nhà nước và các báo cáo, kết luận thanh kiểm tra của cơ quan nhà nước đối với dự án.

Đối với các dự án có nguồn thu từ bên thứ ba thì phải công bố định kỳ sản lượng và doanh thu của dự án. Bên thứ ba (người dân và doanh nghiệp khác) phải được tham gia trong quá trình giám sát nguồn thu.

Cần phân loại điều khoản thay đổi pháp luật

Theo VCCI, các hợp đồng PPP thường có điều khoản về việc thay đổi pháp luật (change of law) hay còn gọi là điều khoản ổn định hợp đồng (stabilisation).

Điều khoản này giúp các nhà đầu tư bảo đảm tránh được rủi ro thay đổi pháp luật sau khi hợp đồng đã được ký. Tuy nhiên, việc mở rộng quá mức điều khoản này có thể ảnh hưởng đến quyền quản lý xã hội, thậm chí chủ quyền của nhà nước.

Do đó, VCCI cho rằng cơ quan soạn thảo cần đưa vào dự thảo Luật Đầu tư PPP một điều khoản về thay đổi pháp luật và phân loại thành 2 nhóm quy định.

Một là đối với các quy định pháp luật về tài chính như mức thuế, mức phí, tiền và các nghĩa vụ tài chính khác với nhà nước, các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư thì cho phép áp dụng cơ chế ổn định hợp đồng.

Hai là đối với các quy định pháp luật vì an toàn, an ninh, lợi ích công cộng thì không được phép áp dụng cơ chế ổn định hợp đồng; ví dụ, các tiêu chuẩn an toàn về môi trường, an ninh quốc phòng, an toàn lao động,…

Đối với vấn đề bảo lãnh dự án PPP, VCCI cho biết đây là vấn đề gây tranh cãi lớn. Nếu không chấp nhận bảo lãnh thì rất khó thu hút các nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài hoặc các dự án có mức độ rủi ro cao. Tuy nhiên, nếu bảo lãnh thì nhà nước nhận rủi ro về phía mình. Do đó, giải pháp tốt nhất là dự luật vẫn chấp nhận cho phép bảo lãnh, nhưng phải thiết kế thật tốt cơ chế quản lý rủi ro của các khoản bảo lãnh.

Về vấn đề bảo lãnh khoản vay, hiện pháp luật Việt Nam đã quy định tương đối rõ ràng trong Luật Quản lý nợ công và Nghị định 91/2018 về bảo lãnh chính phủ. VCCI cho rằng đối với các hình thức bảo lãnh khác, dự luật cũng cần thiết kế các công cụ kiểm soát rủi ro tương tự như trên, thậm chí có thể còn phải chặt chẽ hơn.

“Bởi trong trường hợp dự án gặp rủi ro thì nhà nước đều phải sử dụng tiền ngân sách để trả cho nhà đầu tư. Do đó, cần phải bảo đảm rằng việc nhà nước cam kết bảo lãnh trong các dự án PPP phải được kết nối với việc lập kế hoạch ngân sách, kế hoạch vay, trả nợ công”, VCCI nhấn mạnh.

Về điều khoản bảo mật hợp đồng, VCCI cho hay nhiều hợp đồng PPP hiện nay có điều khoản về bảo mật hợp đồng. Theo đó, bên nào tiết lộ thông tin cho người khác gây thiệt hại cho bên còn lại thì phải bồi thường. Tuy nhiên, hoạt động của các cơ quan nhà nước lại phải đáp ứng nguyên tắc công khai, minh bạch (Điều 28 của Hiến pháp) trừ trường hợp thuộc bí mật nhà nước. Do đó, dự luật cần có quy định giới hạn điều khoản bảo mật trong các hợp đồng PPP.

“Nếu các hợp đồng PPP có điều khoản về bảo mật hợp đồng, thì điều khoản này chỉ được áp dụng đối với các nội dung thông tin thuộc về bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh và các tài sản trí tuệ chưa được công bố”, VCCI đề xuất.

Tin mới lên